Thứ Hai, 9 tháng 9, 2019

Biển Đông: Vì sao Trung Quốc sẽ chọn đánh Việt Nam

Biển Đông: Vì sao Trung Quốc sẽ chọn đánh Việt Nam

Biển Đông: Vì sao Trung Quốc sẽ chọn đánh Việt Nam
 
Một lính hải quân Trung Quốc trước một biểu ngữ có hình chủ tịch Tập Cận Bình, tại một căn cứ ở Hồng Kông. Ảnh chụp ngày 30/06/2019. Reuters

    Nếu căng thẳng hiện nay ở Biển Đông dẫn đến xung đột toàn diện, dường như ngày càng có khả năng mục tiêu mà Trung Quốc tấn công đầu tiên sẽ là Việt Nam.

    Căng thẳng vùng Biển Đông tiếp tục sự chú ý đặc biệt của báo chí quốc tế, đặc biệt là những tờ báo chuyên về thờ i sự châu Á, như trang mạng Asia Times.
    Ngày 05/09/2019, trang mạng này đã đăng tải một bài của nhà báo David Hutt với tựa đề « Vì sao Trung Quốc sẽ chọn đánh Việt Nam ». Theo các nhà phân tích mà David Hutt trích dẫn, Việt Nam sẽ được Trung Quốc chọn để đánh như là một cách để « khởi động - làm nóng » trước khi lao vào một cuộc chiến lớn hơn với Mỹ trên vùng Biển Đông.
    Trong phần tạp chí hôm nay, RFI Việt ngữ xin giới thiệu bài báo này :
    Nếu căng thẳng hiện nay biến thành xung đột toàn diện, dường như ngày càng có khả năng là tiếng súng đầu tiên sẽ nổ ra giữa Trung Quốc và Việt Nam.
    Hai bên đã đối đầu với nhau tại khu vực Bãi Tư Chính giàu nguồn năng lượng, mà không bên nào có vẻ muốn lùi bước. Trung Quốc vẫn chống lại việc những bên tranh chấp khác khai thác các nguồn tài nguyên tại những các vùng biển đang tranh chấp, nhưng cuộc đối đầu hiện nay với Việt Nam có thể phục vụ mục đích chiến lược kép (cho Bắc Kinh).
    Derek Grossman, một nhà phân tích quốc phòng của RAND, một nhóm tư vấn tại Washington, lập luận rằng nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công quân sự ở Biển Đông, đối thủ được lựa chọn rất có thể sẽ là Việt Nam.
    Trong năm nay, trước khi diễn ra cuộc đối đầu tại Bãi Tư Chính, ông Grossman đã từng viết rằng Việt Nam là « cuộc chiến khởi động ưa thích » của Bắc Kinh, với lý do Việt Nam chỉ là một quốc gia có sức mạnh cỡ trung bình, nên quân đội Trung Quốc dễ dàng đánh bại.
    Mặc dù hiện giờ xung đột còn rất khó xảy ra, Bắc Kinh một lần nữa tăng cường xâm lấn và đẩy mạnh chính sách "ngoại giao pháo hạm", qua việc gây sức ép buộc Hà Nội chấm dứt hoạt động thăm dò dầu khí ở vùng biển tranh chấp.
    Vào tháng 7, một tàu khảo sát của Trung Quốc, Hải Dương Địa Chất 8 , cùng với một đội tàu vũ trang, đã hoạt động suốt nhiều tuần tại khu vực gần Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
    Vào giữa tháng 8, sau khi dường như đã trở về Trung Quốc, tàu khảo sát này đã xuất hiện trở lại ở vùng biển Việt Nam nơi các công ty năng lượng Việt Nam và Nga đang cùng thăm dò dầu khí. Năm ngoái, áp lực tương tự từ Trung Quốc đã buộc Hà Nội phải hủy hợp đồng thăm dò dầu trị giá 200 triệu đôla đã ký với công ty năng lượng Tây Ban Nha Repsol.
    Ngày 03/09/2019, có tin là chiếc tàu cẩu lớn nhất thế giới Lam Kình (Lanjing) đã được Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc đưa vào vùng biển Việt Nam, một hành động chắc chắn sẽ làm gia tăng căng thẳng.
    Nếu đúng như thế, Trung Quốc và Việt Nam có thể sẽ tái diễn cuộc đối đầu gây cấn giữa hai bên năm 2014 , khi Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển mà Việt Nam khẳng định chủ quyền gần quần đảo Trường Sa.
    Trung Quốc đưa tàu cẩu Lam Kình vào vùng biển Việt Nam đúng vào lúc Việt Nam và chín thành viên khác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tham gia các cuộc diễn tập hải quân chung đầu tiên với Hoa Kỳ.
    Vụ này cũng diễn ra chỉ một tháng trước khi chủ tịch nước, kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng dự kiến ​​sẽ có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Washington, và trong dịp này, Hoa Kỳ và Việt Nam có thể nâng quan hệ song phương lên cấp « đối tác chiến lược ».
    Quân đội Trung Quốc và Việt Nam đã từng đụng độ với nhau vào cuối năm 1988 tại Đá Gạc Ma, Trường Sa, khiến 64 binh sĩ Việt Nam tử trận. Vụ đụng độ này xảy ra sau một cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu vào năm 1979, mà trong đó cả hai bên đều mất hàng ngàn binh lính.
    Tình hình nay đã thay đổi kể từ những cuộc xung đột ngắn ngủi đó. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) hiện là một trong những quân đội lớn nhất và được trang bị tốt nhất thế giới.
    Vào năm 2017, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã kêu gọi quân đội nước này chuyển đổi hoàn toàn thành một lực lượng tầm cỡ thế giới vào năm 2050. Tuy nhiên, người ta tin rằng giới lãnh đạo ở Bắc Kinh chưa an tâm về mức độ chuẩn bị của quân đội Trung Quốc để chiến đấu trong một cuộc xung đột quy mô lớn.
    Do sự luân chuyển quan chức cấp cao kể từ cuộc xung đột thực sự cuối cùng vào năm 1979, hầu hết những người hiện nay chưa bao giờ biết đến chiến tranh.
    Dennis Blasko, một nhà quan sát về quân đội Trung Quốc, vào tháng 2 đã lưu ý rằng, mặc dù đã đầu tư đáng kể vào vũ khí và công nghệ, và đã cải tổ sâu rộng về cơ cấu, nhưng vẫn có sự thiếu tin tưởng vào khả năng của quân đội Trung Quốc, trong khi đó các hệ thống giáo dục và huấn luyện của quân đội này đã thất bại trong việc đào tạo các viên chỉ huy và sĩ quan tham mưu cho các cuộc chiến tranh tương lai.
    Theo ông Blasko, chính vì vậy mà các lãnh đạo cấp cao quân đội Trung Quốc rất ít nhiệt tình hoặc không chút nhiệt tình trong việc đưa quân đội nước này vào một cuộc chiến thực sự chống lại một kẻ thù hiện đại. Họ thiên về một cuộc chiến tranh kết hợp các lực lượng dân sự, chính phủ, bán quân sự và quân đội.
    Cảm giác không an toàn này sẽ là yếu tố quyết định nước nào mà Trung Quốc coi là đối thủ « xứng đáng ». Theo nhận xét của ông Grossman, đánh Ấn Độ trên đất liền và trên núi cao trong dãy Hy Mã Lạp Sơn sẽ không có ích nhiều trong việc quân đội Trung Quốc chuẩn bị cho chiến tranh trên không và trên biển. Xung đột trên bán đảo Triều Tiên có thể sẽ quá dữ dội và quá gần Trung Quốc. Còn nếu đánh Nhật Bản, Philippines hoặc Hàn Quốc, thì sẽ đụng với quân đội Mỹ, vì nước nào cũng đều có liên minh phòng thủ với Hoa Kỳ. Đạo luật Quan hệ Đài Loan thì dự trù là Washington phải bảo vệ hòn đảo này trong trường hợp Trung Quốc đưa quân xâm lược.
    Theo cái nhìn của ông Grossman, Bắc Kinh có vẻ « thích một cuộc xung đột có thể thắng được» và Việt Nam về cơ bản yếu kém hơn Trung Quốc về khả năng, đào tạo và nhân lực.
    Các nhà phân tích đều nhận thấy rằng Hà Nội đang ngày càng xem các vấn đề quân sự là nghiêm trọng, trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông leo thang qua từng năm.
    Hãng tin Business Wire vào tháng 4 cho biết rằng chính phủ Việt Nam đã dành 5,1 tỷ đô la Mỹ cho chi tiêu quân sự trong ngân sách năm nay, khoảng một phần ba trong số đó sẽ dành cho việc mua sắm thiết bị quốc phòng. Một số nhà phân tích ước tính rằng chi tiêu quân sự của Hà Nội có thể tăng lên 7,9 tỷ đô la vào năm 2024.
    Vào tháng 6, Tạp chí Quốc phòng Toàn dân, do bộ Quốc Phòng Việt Nam điều hành, đã đăng một bài viết về đào tạo quân sự và nhân lực của Việt Nam.Tác giả bài viết cảnh báo : « Việc đào tạo cán bộ trong quân đội không đồng đều và cân đối; nội dung và chương trình đào tạo vẫn còn chậm để đổi mới; việc cập nhật kiến ​​thức và công nghệ quân sự mới trong đào tạo không cao hơn
    Rõ ràng, Việt Nam có quân đội yếu hơn nhiều so với Trung Quốc. Việt Nam chi khoảng 5 tỷ đô la một năm cho quân đội của mình, trong khi Trung Quốc chi đến 220 tỷ đô la. Trung Quốc có quân số nhiều gấp năm lần so với Việt Nam và có số lượng máy bay gấp mười lần (3.187 so với 318) và có gần gấp 11 lần số tàu hải quân (714 so với 65). Trung Quốc cũng có thiết bị tốt hơn nhiều; Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân có tàu sân bay và tàu khu trục, hai phương tiện mà Việt Nam chưa có.
    Hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng, do sự bất cân xứng này, chiến lược duy nhất mà Việt Nam có thể chọn đó là phòng thủ trong trường hợp xảy ra xung đột. Tuy nhiên, dường như không có sự đồng thuận về vấn đề này trong giới lãnh đạo Hà Nội.
    Trong một bài viết cho Tạp chí Quốc phòng Toàn dân ngày 30/08/2019, bộ trưởng Thông Tin và Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên là một thiếu tướng trong quân đội Việt Nam và là cựu chủ tịch Viettel, một tập đoàn thuộc sở hữu của quân đội, đã viết : « Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra với đất nước chúng ta, đó sẽ là một cuộc chiến của nhân dân để bảo vệ một đất nước phát triển chống lại sự xâm lược của kẻ thù. »
    Tuy nhiên, ông lưu ý : « Trong các cuộc chiến tranh chống lại tổ tiên ta trước đây và Đảng ta sau này, nước ta thường phải đối mặt với kẻ thù với sức mạnh quân sự vượt trội, nhưng chúng ta vẫn coi tấn công là tư tưởng chủ đạo, thay vì thụ động hay phòng thủ thụ động ».
    Ông Nguyễn Mạnh Hùng sử dụng cụm từ « phòng thủ tích cực » tương tự như cụm từ được sử dụng vào những năm 1980 bởi nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc đó là Đặng Tiểu Bình.
    Điều này chắc chắn cho thấy các quan chức cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam đang cân nhắc nghiêm túc khả năng xảy ra chiến tranh, và cách thức mà cuộc chiến này xảy ra. Do đó, có lẽ không phải ngẫu nhiên mà đảng Cộng Sản đã dành cho các tờ báo nhiều thời gian hơn để viết về kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm nay.
    Những thông tin trước đó trong năm nay cho thấy Việt Nam đã âm thầm mở rộng lực lượng dân quân biển và trang bị thêm cho lực lượng cảnh sát biển để chuẩn bị đối phó với các lực lượng tương tự của Trung Quốc.
    Do sự chênh lệch về sức mạnh quân sự, khả năng răn đe lớn nhất của Việt Nam chính là thông qua các quan hệ đối tác quốc tế. Và Hà Nội đã rất bận rộn với việc kết bạn mới.
    Chẳng hạn, tháng trước, Việt Nam đã đồng ý mở rộng quan hệ quốc phòng với Nam Phi, trong khi thủ tướng Úc Scott Morrison vừa tái khẳng định hợp tác quân sự giữa hai nước trong chuyến thăm Hà Nội.
    Việt Nam cũng đã ký các thỏa thuận quốc phòng mới với Liên Hiệp Châu Âu và Nhật Bản trong năm nay. Tuy nhiên, quan trọng nhất đối với Hà Nội đó là giành được nhiều bảo đảm chiến lược hơn từ kẻ thù cũ Hoa Kỳ.
    Chuyến thăm sắp tới của ông Trọng đến Washington vì vậy rất quan trọng. Quan hệ hiện nay giữa Mỹ với Việt Nam đã rất là tốt rồi, nhưng nếu hai bên đồng ý nâng cấp quan hệ chiến lược, thì đây sẽ là một tín hiệu mạnh mẽ hơn cho thấy Mỹ đang yểm trợ Việt Nam, và đóng vai trò răn đe lâu dài đối với Trung Quốc.
    Gần như chắc chắn hai bên sẽ chỉ sẽ dừng lại ở một hiệp ước quốc phòng, vì chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam gọi là « Ba Không » cấm Hà Nội ký hiệp ước quân sự với các quốc gia khác.
    Tuy nhiên, một quan hệ đối tác không có điều kiện có thể cho phép có thêm nhiều chuyến thăm của tàu hải quân Hoa Kỳ đến Việt Nam - điều mà Washington mong muốn - và có lẽ là một cam kết của Hà Nội để mua thêm vũ khí từ Mỹ.
    Việt Nam hiện mua khoảng bốn phần năm thiết bị quân sự từ Nga và một phần mười từ Israel. Đổi lại việc Hà Nội mua nhiều vũ khí hơn, Washington có thể sẽ làm rõ về việc liệu Việt Nam có sẽ bị xử phạt theo đạo luật Chống các đối thủ của Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA), dự trù trừng phạt các quốc gia mua vũ khí từ Nga, hay không.
    Việt Nam đã tạm thời được miễn CAATSA, và cựu bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis đã tìm cách miễn hẳn cho Việt Nam. Nhưng để được miễn trừ lâu dài hơn, Hà Nội phải cho thấy rằng họ đang giảm sự phụ thuộc vào vũ khí nhập từ Nga. Cũng qua việc mua thêm vũ khí của Mỹ, Việt Nam sẽ giảm thặng dư thương mại đáng kể với Mỹ, vẫn gây bực bội cho chính quyền Donald Trump.
    Washington đã kiên quyết chống lại các hành động mới nhất của Bắc Kinh ở Biển Đông, mà bộ Ngoại Giao Mỹ mô tả là « sự can thiệp mang tính cưỡng ép » đối với các hoạt động dầu khí từ lâu của Việt Nam. Bộ Ngoại Giao Mỹ vào tháng trước cho rằng Trung Quốc đang tìm cách ngăn chận việc tiếp cận nguồn dầu khí chưa được khai thác ở vùng Biển Đông, được ước tính khoảng 2,5 nghìn tỷ đô la.
    Bộ Quốc Phòng Mỹ trong một báo cáo năm ngoái đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc là nước tiêu thụ dầu thô lớn thứ hai thế giới và là nước tiêu thụ khí đốt tự nhiên lớn thứ ba. Hơn nữa, sự phụ thuộc vào khí đốt nhập khẩu, chiếm 67% nhu cầu trong năm 2017, tỷ lệ này có thể tăng lên 80% vào năm 2035, cho nên các nguồn tài nguyên chưa được khai thác ở Biển Đông lại càng quan trọng đối với Trung Quốc.
    Hoa Kỳ sẽ cần phải chứng minh rằng họ nghiêm túc trong việc bảo đảm an ninh cho Việt Nam đối với Trung Quốc. Hà Nội chắc vẫn còn nhớ rằng tổng thống Barack Obama thời đó đã từ chối bảo vệ một đồng minh có hiệp ước với Mỹ, khi Trung Quốc chiếm giữ bãi cạn Scarborough từ Philippines năm 2012. Obama cũng không hỗ trợ gì cho Việt Nam trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014.
    Phần lớn chính sách của Trump cũng đi theo hướng đó, đưa ra những tuyên bố nghiêm khắc, nhưng không kèm theo hành động, khi Trung Quốc thành công buộc Việt Nam phải hủy bỏ các hợp đồng thăm dò dầu khí vào năm ngoái và năm 2017 tại các khu vực Biển Đông đang tranh chấp.
    Các hành động gây áp lực của Trung Quốc gần Bãi Tư Chính và việc điều tàu cẩu vào vùng biển Việt Nam càng nguy hiểm hơn, vì kể từ nay các tàu của họ có thể tiếp cận các cơ sở hải quân và không quân mới trên các các đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở Biển Đông.
    Điều này có nghĩa là các tàu đó không còn cần phải quay trở lại Hoa lục để tiếp nhiên liệu và bảo trì trong các chuyến hành trình vào Biển Đông. Điều đó cũng có nghĩa là họ có thể tuần tra gần bờ biển Việt Nam hơn và trong thời gian dài hơn.
    Nếu cuộc đối đầu với Việt Nam leo thang thành một cuộc đối đầu vũ trang, thì đó có thể là cuộc trắc nghiệm về sự sẵn sàng của Trung Quốc cho một cuộc chiến tranh lớn hơn có thể xảy ra ở vùng biển tranh chấp này trong những năm tới.
    Theo Rfi

    Không có nhận xét nào: